Quá trình nhận thức của Đảng về đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với cán bộ, đảng viên
Biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” là biểu hiện chính trị tiêu cực, phản cách mạng, xa rời mục
tiêu, lý tưởng, định hướng chính trị; dao động, mơ hồ, mất phương hướng, thực
chất là sự biến đổi về tư tưởng chính trị theo chiều hướng xấu dần, từng bước
xa rời mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thời gian qua,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên ở nước ta có diễn biến phức tạp. Bài viết tập trung phân tích những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng
viên, xác định các nguyên nhân. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu
ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong thời gian
tới.
Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu chỉ đạo Hội nghị toàn quốc quán triệt,
triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XIII. (Ảnh: lyluanchinhtri.vn)
1. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA
ĐẢNG VỀ BIỂU HIỆN, NGUY CƠ "TỰ DIỄN BIẾN","TỰ CHUYỂN HÓA"
TRONG NỘI BỘ
Trải qua 95 năm dựng
xây và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Công tác nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ là công việc thường xuyên nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
có lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng, hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị
thời kỳ mới.
Vấn đề nhận diện, đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
cán bộ, đảng viên được Đảng ta quan tâm. Hội nghị Trung ương 8, khóa VII nhận
diện âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực đế quốc,
trong đó xác định: “Trọng điểm chống phá của chúng là nhằm vào nội bộ Đảng và
Nhà nước, mưu đồ tạo ra quá trình tự diễn biến từ bên trong. Chúng kết hợp tiến
công về tư tưởng, lý luận với nhiều biện pháp về kinh tế, tài chính, tổ chức
lực lượng…, hy vọng làm cho Đảng và Nhà nước ta thay đổi bản chất, thay đổi
đường lối, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường tự do, tư nhân hóa và nền dân
chủ tư sản hoặc xã hội - dân chủ”(1). Thảo luận Chiến lược cán bộ
trong thời kỳ mới, Bộ Chính trị nêu: “Họ đang muốn lợi dụng sự đổi mới, sự
chuyển tiếp các thế hệ cán bộ của ta, thông qua quan hệ kinh tế, văn hóa, ngoại
giao…để làm đội ngũ cán bộ ta “tự diễn biến” đi chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã
hội”(2). Tiếp đến Chỉ thị 39-CT/TW ngày 14-8-1998 của Bộ Chính trị
về thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã
nhận định: “Để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta, các
thế lực thù địch ráo riết lợi dụng sơ hở và khuyết điểm của ta để thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”, thâm nhập phá hoại nội bộ Đảng ta nhằm làm thay đổi
bản chất giai cấp của Đảng, làm cho đảng viên từ bỏ mục tiêu lý tưởng cách
mạng, tự “diễn biến”, tự “đổi màu, hình thành lực lượng đối lập từ bên trong,
tạo dựng “ngọn cờ” chờ thời cơ để thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa”(3). Tại Đại hội XI (năm 2011),
lần đầu tiên Đảng ta nhận định: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những biểu hiện phức
tạp”(4) là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng
và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đại hội XII của Đảng đã
chỉ rõ các biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”(5).
Đại hội nêu: “…tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu biện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức…”(6). Nội dung này được cụ thể hóa trong
Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã chỉ
ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Cùng với việc lần đầu
tiên chỉ ra 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, điểm mới về nhận thức
trong Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII là chỉ ra
“vị trí” của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, và mối quan hệ giữa
những biểu hiện “tự diễn biến”, tự chuyển hóa” với những biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ và nguy cơ phản bội, phản
động.
Đại hội XIII của Đảng tiếp
tục nêu: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí,
ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”(7); “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các
thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(8).
2. NHỮNG BIỂU HIỆN
"TỰ DIỄN BIẾN","TỰ CHUYỂN HÓA"
Theo Từ điển tiếng
Việt, diễn biến là biến đổi theo chiều hướng nào đó(9).
Theo đó, tự diễn biến là tự thân chủ thể (tổ chức, cá nhân) có hành vi tự gây
ra, chỉ bằng khả năng của riêng mình dẫn đến sự tự biến đổi về tư tưởng, diễn
biến tâm lý hoặc về ý thức, trách nhiệm của mình.
Như vậy, “tự diễn
biến” trong cán bộ, đảng viên là việc cán bộ, đảng viên chịu sự chi phối của
hành động do chính mình gây ra dẫn đến sự tự biến đổi về tư tưởng chính trị,
phẩm chất, đạo đức, lối sống, diễn biến tâm lý hoặc về ý thức, trách nhiệm
trong từng thời điểm, thời kỳ nhất định.
Theo Từ điển tiếng
Việt, chuyển hóa là biến đổi từ dạng này, hình thái này sang dạng khác,
hình thái khác(10). Còn theo Từ điển Triết học, chuyển
hóa là những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất(11). “Tự
chuyển hóa” là tự bản thân chủ thể (tổ chức, cá nhân) có hành vi tự gây ra, chỉ
bằng sức lực, khả năng của riêng mình để biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác
về tư tưởng, diễn biến tâm lý hoặc về ý thức, trách nhiệm của mình. Như vậy,
“tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên là việc cán bộ, đảng viên có hành vi hoặc
việc làm, hoặc tự gây ra, chỉ bằng sức lực, khả năng của chính mình để tư tưởng
chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống hoặc về ý thức, trách nhiệm biến đổi
sang dạng hoặc hình thái khác.
Thực tế cho thấy quá trình
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể diễn ra theo hai hướng ngược nhau: tiến
bộ và phản tiến bộ, tích cực và tiêu cực. Trong các văn kiện của Đảng, nội hàm
của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được sử dụng với hàm ý chỉ sự phản tiến bộ,
tức là sự biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. “Tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” cũng là quá trình tự phủ định, nhưng đó không phải là tự phủ định
cái phủ định (các hạn chế, yếu kém) mà là tự phủ định cái khẳng định (mặt thành
tựu, tích cực) của chính bản thân mình. Như vậy, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, làm phai nhạt niềm tin và các chuẩn
mực của người đảng viên cộng sản, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn đến
xa rời nguyên tắc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu, lý tưởng cách mạng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, phá hoại nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm mục ruỗng
Đảng từ bên trong, dẫn đến sự chuyển hóa chế độ.
Khi nói quá trình “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” nghĩa là đã diễn ra trong một thời gian nhất định. Quá
trình “tự diễn biến” chuyển sang “tự chuyển hóa” có thể diễn ra một cách tự
phát, chậm chạp, nhưng cũng có thể xảy ra lúc nhanh, lúc chậm, lúc sôi động,
lúc âm thầm hoặc nhanh chóng, mau lẹ, liên tục, nhất là khi tình hình chính
trị, xã hội diễn biến phức tạp, có sự tác động của nhân tố bên ngoài, trong đó
đáng chú ý là hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” thường bắt đầu từ việc tiếp nhận một cách thụ động các luận điệu tuyên
truyền phản cách mạng của các thế lực thù địch thông qua các phương tiện thông
tin khác nhau. Với những người có vướng mắc về tư tưởng, lệch lạc về nhận thức,
tiếp nhận thụ động lâu ngày rồi cũng sẽ đến tiếp nhận chủ động, nghĩa là tự tìm
kiếm những thông tin, nội dung theo chiều hướng khẳng định những suy nghĩ, quan
điểm sai lệch. Trong điều kiện tác động từ các mặt trái của kinh tế thị trường
và những sơ hở trong quản lý các hoạt động truyền thông đại chúng, nhất là mạng
xã hội, các chủ thể “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bắt đầu tự xác định cho
mình những lý lẽ chủ quan để tiếp tục phát triển tư tưởng phản động đã tiếp
nhận được. Kết quả là, kẻ đó sẽ đưa tư tưởng phản động của mình vào thực tế
hành động của họ. Vì vậy, một cán bộ mà “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nếu có
quyền lực chính trị, tác hại của nó sẽ rất nguy hiểm. Nó sẽ làm thay đổi bản
chất chính trị của tổ chức do người đó có vai trò lãnh đạo sang một trạng thái
khác, đó là chuyển hóa chính trị.
Quá trình “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” có thể diễn ra với các giai đoạn khác nhau tương ứng với các
mức độ. Ở giai đoạn đầu, đối tượng thể hiện sự hoang mang, dao động về tư tưởng
chính trị, sự hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng, tính khoa học và phù hợp của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Những biểu hiện này nếu không được kiểm soát bằng giáo
dục, kiểm điểm, tự phê bình và phê bình thì sẽ sang giai đoạn tiếp theo cao
hơn.
Ở giai đoạn tiếp theo,
biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tăng lên, đối tượng bắt đầu chủ
động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu chống đối
hoặc lý luận phản động. Kết quả là một số đối tượng bắt đầu hoạt động câu kết
với đối tượng bất mãn, thoái hóa, các phần tử thù địch bên ngoài để tiếp tay
cho chúng. Biểu hiện rõ nhất là hoạt động thu thập, tổng hợp tin tức nội bộ, kể
cả các thông tin công khai nhưng nhạy cảm để cung cấp cho các đối tượng phản
động sử dụng hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Ở giai đoạn này, công tác đấu
tranh chủ yếu là các biện pháp tổ chức và hành chính, với phương châm cảm hóa,
thuyết phục và “kéo” là chính.
Ở giai đoạn tiếp theo biểu
hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tăng thêm lên, ở độ cao của biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nếu không ngăn chặn kịp thời đối tượng sẽ có tư
tưởng phản động, chống đối, chủ động tìm đến những phần tử đang “tự diễn biến”
để tập hợp lực lượng, hình thành nhân lõi tổ chức ban đầu. Một số kẻ sẽ tự tìm
đến các tổ chức phản động nước ngoài để câu kết. Ở giai đoạn này, đối tượng đã
thể hiện rõ tư tưởng chính trị phản động, sẵn sàng đối đầu với hệ thống chính
trị và pháp luật. Chúng không còn biết sợ hãi trước sức mạnh của pháp luật,
thậm chí sẵn sàng hành động để làm thay đổi hệ thống chính trị.
Đối với loại đối tượng đã
chuyển hóa đến mức độ chống đối rõ ràng, thậm chí công khai này, công tác đấu
tranh cũng cần phải tương ứng. Trong đó, đấu tranh làm tan rã tổ chức, chuyển
hóa tư tưởng phản động là nhiệm vụ quan trọng. Trong trường hợp cụ thể, phải
kiên quyết trấn áp mạnh bằng pháp luật để cảnh báo, ngăn chặn “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”.
Những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên nhiều mặt từ tư tưởng, nhận thức lệch lạc
về tư tưởng, chính trị đến hành vi sa đọa về đạo đức, lối sống nếu không được
ngăn chặn, đẩy lùi kịp thời. Các biểu hiện suy thoái trên có quan hệ tương tác
với nhau; từ sự suy thoái về tư tưởng, chính trị có thể dẫn tới sự tha hóa về
đạo đức, phẩm chất, lối sống và ngược lại, tha hóa về đạo đức, lối sống có thể
dẫn đến sự thoái hóa về tư tưởng - chính trị.
Các biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” mà Đảng ta nhận diện và chỉ ra cụ thể thành 09 điểm
trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, như sau: “(1) Phản bác, phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất
là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”. (2) Phản
bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”.
Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai. (3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả
cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa
đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. (4) Kích động tư
tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng
các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ
thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân. (5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị
hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và
công an. (6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần
tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận
động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước. (7) Đưa thông
tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước;
thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ
giữa Việt Nam với các nước. (8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo
chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo
đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng
mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch
lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng. (9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi,
tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo
để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa
dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước”(12).
3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG
BIỂU HIỆN "TỰ DIỄN BIẾN","TỰ CHUYỂN HÓA"
Một là, sự
tác động từ hoạt động tuyên truyền thù địch, sự tác động tiêu cực của diễn biến
tình hình thế giới và sự tác động bởi tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, phân hóa giàu nghèo gia
tăng dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội. Song, trước hết và chủ yếu là
do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên lập trường tư
tưởng, chính trị không vững vàng, không tự tu dưỡng rèn luyện; ở bộ phận cán
bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện giữ những vị trí, trọng trách trong hệ
thống chính trị. Bên cạnh đó là những người dân do thiếu hiểu biết, mơ hồ, nhận
thức chính trị còn hạn chế, thiếu thông tin hoặc bị các thế lực thù địch, phản
động mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo nhằm biến họ trở thành công cụ gây áp lực chính
trị, thực hiện âm mưu lật đổ chế độ.
Hai là, một
bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống cơ hội, vụ lợi, hám danh, bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; quan
liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân; nói không đi đôi với
làm, nói một đằng, làm một nẻo, không chấp hành nghiêm túc quy tắc ứng xử và
đạo đức nghề nghiệp, thiếu gương mẫu.
Ba là, các
thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch từ bên ngoài, có thể làm
chuyển hóa thành sai lệch, biến chất từ bên trong nội bộ. Biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” đang tiềm tàng và hiện hữu trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên bị kích động bởi “diễn biến hòa bình” từ bên ngoài, nên lại càng phức
tạp và nguy hiểm. Đó là những nguy cơ, mầm họa làm suy yếu Đảng từ bên trong,
nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà
nước, là nguy cơ đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Nhận diện, đấu tranh, ngăn
chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là vấn đề cấp bách, cần
sắc bén và thận trọng. Trong điều kiện tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng,
kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cấp bách phải tổng kết thực
tiễn, làm rõ những yếu tố tác động dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
4. MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI
PHÁP NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI NHỮNG BIỂU HIỆN "TỰ DIỄN BIẾN","TỰ
CHUYỂN HÓA" TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Một là, thực hiện tốt các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình. Các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Đảng chứa đựng trong đó những nội dung, yêu cầu mọi cán
bộ, đảng viên phải nhận thức đúng, đầy đủ. Tuy nhiên, thực tế không phải tất cả
cán bộ, đảng viên đều có nhận thức đúng, thậm chí có cán bộ, đảng viên cố tình
nhận thức sai, vi phạm nguyên tắc vì lợi ích cá nhân. Do vậy, nhận thức đúng và
thực hiện tốt các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình
và phê bình là sự bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đoàn kết, thống nhất ý
chí và hành động thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, làm cho các tổ chửc
đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tự phê bình, phê bình để làm
cho đức tính tốt đẹp tăng lên, điều xấu mất đi, trên cơ sở đó tăng cường đoàn
kết, thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức đảng và đảng viên luôn luôn
hoàn thiện mình, phấn đấu hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ Tổ quốc và nhân
dân giao phó.
Hai là, tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức quán triệt,
triển khai thực hiện tốt trong thực tế công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan tâm, lựa chọn có trọng tâm, trọng điểm
nội dung giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mục tiêu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lựa chọn các hình thức, biện pháp
giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp với nội dung giáo và đối tượng giáo dục,
trong từng hoàn cảnh, từng nhiệm vụ. Chăm lo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công
tác chính trị, tư tưởng, nhất là đội ngũ cán bộ nòng cốt, chuyên trách về công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng về cả số lượng, chất lượng; về phẩm chất, năng
lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, tác phong công tác; về thực
hiện tốt các chế độ, chính sách. Không ngừng nâng cao tính chiến đấu, tính
thuyết phục của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là tính sắc bén,
tính thuyết phục cao trong đấu tranh phòng, chống các luận điệu sai trái, thù
địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng
cao nhận thức chính trị, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần
đẩy lùi, triệt tiêu những biễu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng
chính trị và suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Ba là, kịp thời phát hiện
âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá. Biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên có tác động trực
tiếp từ những luận điệu tuyên truyền phản động. Để cán bộ, đảng viên trước các
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cần chủ động có các phương án, biện
pháp cụ thể, tổ chức lực lượng thích hợp để đấu tranh, phản bác có hiệu quả.
Bốn là, nâng cao chất
lượng công tác quản lý cán bộ, đảng viên, thường xuyên duy trì có hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Cán bộ, đảng viên
phải tự giác đặt mình trong tổ chức, chịu sự quản lý của tổ chức, chấp hành các
chế độ, quy định của tổ chức. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào cũng phải nêu
cao ý thức tổ chức, kỷ luật, không ngừng tự tu dưỡng, rèn luyện. Cấp ủy, tổ
chức đảng các cấp phải nâng cao chất lượng quản lý đảng viên một cách toàn diện
trên các mặt, kể cả các quan hệ xã hội, các nguồn thu nhập, lối sống. Tăng
cường chế độ trách nhiệm trong Đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm quy định về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp. Tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ góp phần quản lý chặt chẽ
cán bộ, đảng viên ở mọi lúc, mọi nơi, phát hiện và xử lý kịp thời những đảng
viên vi phạm tư cách, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong đảng.
Năm là, chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch”
trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Nâng
cao sức “đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trước sự tác động từ mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, nhất là trước sự cám dỗ của đồng
tiền. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện với tự giáo dục, tự rèn luyện,
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất và năng lực, phương
pháp, tác phong công tác, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Sáu là, phát huy vai trò
của nhân dân, các đoàn thể, báo chí và dư luận xã hội trong việc đấu tranh ngăn
chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phát
huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, nhất là với việc thực hiện
các chủ trương, chính sách có liên quan đến chức trách, nhiệm vụ của đảng viên,
phát huy vai trò của dư luận xã hội trong đấu tranh phòng, chống biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất
để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý kịp thời, hiệu
quả những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là các biểu hiện suy thoái “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện cơ
chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh
chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng cao ý thức cảnh giác
cách mạng toàn dân trước âm mưu chống phá của các thế lực phản động.
5. KẾT LUẬN
Như vậy, việc nhận diện
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã được Đảng ta tổng kết, khái
quát làm cơ sở để đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân và đề xuất những
giải pháp phù hợp nâng cao hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng../.